Những năm gần đây, biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam diễn biến ngày càng gay gắt với nhiều biểu hiện cực đoan: hạn hán kéo dài, lũ lụt bất thường, xâm nhập mặn sâu vào nội đồng, nhiều khu vực thiếu nước nghiêm trọng trong mùa cạn. Trong bối cảnh đó, việc thay đổi tư duy quản lý tài nguyên nước từ “nước thiếu mới lo” sang “Dự báo trước – Chuẩn bị trước” đã trở thành yêu cầu cấp bách. Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà đã có cuộc trao đổi với phóng viên báo chí về những thách thức trong quản trị nước hiện nay, cũng như các giải pháp căn cơ đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai nhằm chủ động hơn trong công tác điều hòa, phân bổ và đảm bảo an ninh nguồn nước trong dài hạn.
Phóng viên (PV): Thưa ông, hiện nay vấn đề quản lý và sử dụng nguồn nước trên các lưu vực sông tại Việt Nam đang gặp phải những thách thức nào?
Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà:
Hiện nay, nguồn nước ở Việt Nam đang phải đối mặt rất nhiều thách thức như lượng nước phụ thuộc tới 60% (khoảng 504,4 tỷ m3) lượng nước từ nước ngoài. Trong khi, lượng nước nội địa phân bố không đồng đều, mùa cạn kéo dài 7-9 tháng, chỉ chiếm khoảng 28% tổng lượng nước trong năm. Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tình trạng hạn hán kéo dài, lũ lụt bất thường hay tình trạng xâm nhập mặn sâu rộng diễn ra ngày càng thường xuyên. Trong khi Chúng ta từng nhiều năm ứng phó với hạn hán, thiếu nước trong thế bị động “nước thiếu mới lo tìm nguồn, nước cạn mới vội điều tiết”, thiếu giải pháp xử lý căn cơ, gốc rễ các tồn tại theo tinh thần "phòng ngừa hơn cứu chữa".
Mặt khác, với áp lực phát triển kinh tế-xã hội, nhu cầu nước cũng tăng nhanh chóng. Cụ thể bình quân trong vòng 50 năm qua, nhu cầu nước đã tăng gấp 3 lần do gia tăng dân số, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị hóa và dự báo đến năm 2030 nhu cầu sử dụng nước cho các ngành khoảng 122,47 tỷ m3/năm. Theo đó, mâu thuẫn giữa yêu cầu phòng chống lũ, đảm bảo an ninh nguồn nước cấp cho sinh hoạt, nhu cầu nước cho các ngành kinh tế, bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà: “Kịch bản nguồn nước giúp chúng ta không còn lúng túng khi thiên tai xảy ra”Bên cạnh đó, ô nhiễm nguồn nước gia tăng, các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp gia tăng cũng kéo theo các hoạt động xả nước thải (nhất là nước thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn xả vào nguồn nước) đã và đang tác động và gây sức ép ngày càng lớn, nghiêm trọng đến cả số lượng và chất lượng nguồn nước các sông, suối và các tầng chứa nước; nhất là lưu vực sông Nhuệ - Đáy, sông Cầu và hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải...
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), ô nhiễm chất lượng nước có thể làm giảm 4,3% GDP mỗi năm. Nếu Việt Nam không áp dụng các giải pháp để giải quyết triệt để vấn đề xử lý nước thải thì GDP của Việt Nam sẽ giảm 2,5% vào năm 2035.
Trước những thách thức trên, thực hiện các quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2023, Cục Quản lý tài nguyên nước đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan và các nhà khoa học để xây dựng, trình Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố Kịch bản nguồn nước (lần đầu trong mùa cạn năm 2024-2025) cho 8/16 lưu vực sông (gồm sông Hồng - Thái Bình, Cửu Long, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Đồng Nai, Hương, Srêpốk và Sê San). Trong năm 2025 sẽ tiếp tục trình Bộ công bố KBNN mùa cạn 2025-2026 cho 13/16 lưu vực sông (gồm: sông Hồng - Thái Bình, Cửu Long, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Hương, Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Kon, Ba, Srêpốk, Sê San và Đồng Nai).
Các Kịch bản này cho phép phân tích, đánh giá và nhận định rõ trạng thái nguồn nước trên từng lưu vực sông, cảnh báo sớm tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác khai thác, sử dụng và phân bổ nguồn nước.
Đây là kim chỉ nam hành động, giúp chúng ta thay đổi phương thức quản lý nước từ bị động sang chủ động, từ ngắn hạn sang dài hạn, tăng tính chủ động trong công tác phòng ngừa, ứng phó với thiên tai.
Kịch bản nguồn nước giúp chúng ta chủ động ứng phó với hạn mặn từ sớm, từ xaPV: Thưa ông, qua thời gian triển khai bước đầu, Cục đánh giá như nào về hiệu quả mà kịch bản nguồn nước mang lại trong việc điều hoà, điều tiết sử dụng nguồn nước?
Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà:
Ngay sau khi các Kịch bản nguồn nước (lần đầu) được công bố, Cục Quản lý tài nguyên nước tổ chức theo dõi thường xuyên diễn biến nguồn nước, tình hình khai thác, sử dụng nước trên các lưu vực sông đã được công bố KBNN và trao đổi thông tin với các cơ quan quản lý tại địa phương, các đơn vị quản lý, vận hành công trình khai thác nước.
Đồng thời, thường xuyên cập nhật bản tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn của Cục Khí tượng Thủy văn và việc triển khai thực hiện KBNN của các Bộ, ngành, địa phương trên từng lưu vực sông.
Qua theo dõi cho thấy, các đánh giá, nhận định về trạng thái nguồn nước trên sông, tại các hồ chứa lớn, quan trọng trên lưu vực sông trong các KBNN tương đối phù hợp với thực trạng, diễn biến nguồn nước và khai thác, sử dụng nước trên các lưu vực.
Các Bộ, ngành sử dụng nước lớn đã có những chỉ đạo việc khai thác, sử dụng nước phù hợp với KBNN được công bố, điển hình là việc lấy nước phục vụ gieo cấy lúa vụ Đông Xuân 2024-2025 khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ phù hợp mức khuyến nghị của KBNN trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình đã được công bố; đồng thời Bộ Công Thương chỉ đạo Công ty vận hành Hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia, EVN, các đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch vận hành xả nước các hồ chứa thủy điện phù hợp KBNN, góp phần sử dụng nước tiết kiệm và nâng cao hiệu quả phát điện trong mùa cạn năm 2025.
Ngoài ra, hầu hết, các khu vực xảy ra hạn hán, thiếu nước cục bộ trong mùa cạn năm 2025 đều nằm trong các khu vực đã được cảnh báo trong các KBNN; diễn biến xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long các tháng đầu năm 2025 được ghi nhận xuất hiện nhưng chưa vượt quá mức cảnh báo trong KBNN trên lưu vực sông Cửu Long đã công bố.
Như vậy, KBNN đã định hướng tổng thể việc khai thác, sử dụng nước, điều hòa phân bổ nguồn nước và phòng chống hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông trong mùa cạn năm 2024-2025, làm cơ sở để các ngành có khai thác, sử dụng nước (như trồng trọt, thủy sản, thủy điện, cấp nước sinh hoạt) và các địa phương chủ động được cơ cấu mùa vụ, cây trồng, chủ động ứng phó với hạn mặn từ sớm, từ xa, hạn chế được các thiệt hại và góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, các nhu cầu thiết yếu khác của người dân.
PV: Thưa ông, thời gian tới, Cục Quản lý tài nguyên nước sẽ tham mưu cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng và ban hành thêm những kịch bản nguồn nước nào? Các kịch bản này dự kiến sẽ hỗ trợ như thế nào trong việc giải quyết những thách thức của từng lưu vực sông?
Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà:
Trong năm 2025, Cục Quản lý tài nguyên nước tiếp tục chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan, các địa phương và nhà khoa học để xây dựng và trình Bộ công bố Kịch bản nguồn nước trên 13 lưu vực sông, trong đó 08 lưu vực sông được công bố lần đầu trong mùa cạn năm 2024-2025 sẽ tiếp tục được xây dựng và công bố cho mùa cạn 2025-2026 và bổ sung công bố Kịch bản nguồn nước lần đầu cho 05 lưu vực sông (gồm: Cả, Ba, Kôn - Hà Thanh, Trà Khúc và Vu Gia - Thu Bồn). Mới đây nhất, ngày 14/11/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công bố Kịch bản nguồn nước mùa cạn năm 2025-2026 trên 02 lưu vực sông lớn, quan trọng là lưu vực sông Cửu Long và lưu vực sông Hồng - Thái Bình.
Như đã trình bày ở trên, KBNN trên các lưu vực sông đã nhận định được trạng thái nguồn nước trên các tiểu lưu vực sông, tiểu vùng, tại các hồ chứa lớn, quan trọng trên lưu vực, là cơ sở để cảnh báo, định hướng, xây dựng phương án và thực hiện việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông, tiểu lưu vực sông thông qua các hoạt động: điều chỉnh chế độ vận hành các đập, hồ chứa, công trình khai thác nước; điều chỉnh hạn ngạch khai thác tài nguyên nước hoặc tạm dừng hoạt động khai thác nước; hạn chế phân phối tài nguyên nước cho các hoạt động sử dụng nhiều nước không hiệu quả, chưa cấp thiết; tổ chức thực hiện các biện pháp ứng phó, giảm thiểu thiệt hại khi xảy ra hạn hán, thiếu nước... góp phần nâng cao tính chủ động của các địa phương trên lưu vực trong mọi tình huống, chuyển từ thế “bị động” sang “chủ động” nguồn nước cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nước sinh hoạt.
KBNN sẽ dự báo, xác định được phạm vi, mức độ hạn hán, thiếu nước, là cơ sở để phân định rõ trách nhiệm của từng Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện phương án điều hòa, phân phối tài nguyên nước, triển khai các biện pháp ứng phó, giảm thiểu thiệt hại khi xảy ra hạn hán, thiếu nước. Tránh tình trạng không rõ trách nhiệm, giao thoa, chồng chéo trong thực hiện các giải pháp ứng phó khi xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, gây lãng phí nguồn lực nhà nước và thiếu hiệu quả.
Đồng thời, Kịch bản nguồn nước cũng là căn cứ để các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo việc lập Kế hoạch khai thác, sử dụng nước phù hợp với điều kiện của nguồn nước và hướng đến tính chủ động trong khai thác, sử dụng nguồn nước, giảm thiểu tác động tiêu cực do thiếu hụt nguồn nước.
Kịch bản nguồn nước – công cụ định hướng vận hành liên hồ chứa thông minhPV: Cùng với việc ban hành các kịch bản nguồn nước, Cục Quản lý tài nguyên nước sẽ tăng cường các giải pháp nào để giải quyết các thách thức hiện nay trong vấn đề quản trị tài nguyên nước?
Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà:
Để xử lý căn cơ, gốc rễ các thách thức hiện nay trong quản trị tài nguyên nước, tăng tính chủ động trong công tác phòng ngừa, ứng phó với thiên tai và tránh việc lúng túng trong việc xử lý sự vụ, theo tinh thần "phòng ngừa hơn cứu chữa thì bên cạnh việc công bố KBNN trên các lưu vực sông hàng năm thì trong thời gian tới chúng ta cần phối hợp đồng bộ các giải pháp từ cấp độ thể chế đến ứng dụng công nghệ hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, cần tập trung vào các giải pháp sau:
Trước hết, cần khẩn trương hoàn thiện và triển khai hiệu quả các Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông trên cơ sở đánh giá tổng thể hiện trạng và dự báo các kịch bản biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế - xã hội.
Quy hoạch này phải tích hợp đầy đủ các mục tiêu bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước một cách hiệu quả, đồng thời xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các bên liên quan. Song song đó, cần rà soát, hoàn thiện và triển khai hiệu quả các quy định pháp luật về quản lý, điều hòa, phân phối tài nguyên nước, đảm bảo tính minh bạch, công bằng và khả thi trong thực tiễn; xây dựng cơ chế tài chính cho tài nguyên nước (bao gồm thực hiện hạch toán tài nguyên nước, định giá đầy đủ các giá trị kinh tế, xã hội và môi trường của nước) để sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Tiếp theo, cần ứng dụng công nghệ để quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số. Luật Tài nguyên nước 2023 đã có nhiều quy định hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định để điều hoà, phân phối tài nguyên nước, vận hành liên hồ chứa theo thời gian thực nhằm giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của Nhà nước.
Theo đó, hiện nay Cục Quản lý tài nguyên nước đang triển khai xây dựng các hệ thống: hỗ trợ ra quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước, vận hành liên hồ chứa hướng tới thời gian thực; hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước; … Các hệ thống này không chỉ thu nhận, lưu trữ, phân tích xử lý thông tin, dự báo và điều tiết nguồn nước, mà còn tích hợp dữ liệu kinh tế để tối ưu hóa phân bổ nước cho các ngành, cân bằng giữa lợi ích kinh tế, bảo đảm an toàn cho người dân và bền vững môi trường. Việc vận hành liên hồ chứa và công bố kịch bản nguồn nước hàng năm cần được thực hiện dựa trên dữ liệu thời gian thực và các phân tích dự báo chính xác, minh bạch, giúp các bên liên quan chủ động thích ứng và tối ưu hóa lợi ích về kinh tế - xã hội, môi trường do nguồn nước mang lại.
Tóm lại, để giải quyết các thách thức hiện nay đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện: từ khung pháp lý và quy hoạch chặt chẽ đến áp dụng công cụ kinh tế để khuyến khích sử dụng hiệu quả, và tận dụng tối đa sức mạnh của công nghệ số để ra quyết định nhanh chóng, chính xác.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!