Gia Lai là một tỉnh nằm trên 4 lưu vực sông Sê San, Srê Pôk, Ba và Kôn – Hà Thanh có diện tích tự nhiên là 21.576,53km2.
Tài nguyên nước mặt của tỉnh theo tài liệu tính toán tổng lượng mưa năm bình quân từ 1.750 – 2.500mm, trong đó lượng mưa mùa mưa chiếm khoảng 75% và mùa khô chiếm 25% tổng lượng mưa năm.
Tài nguyên nước dưới đất của tỉnh gồm 6 tầng chứa nước chính, bao gồm: Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Đệ tứ không phân chia (q), tầng chứa nước Holocene (qh) và tầng chứa nước Pleistocene (qp), tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa β(qp), tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp) và tầng chứa nước khe nứt trong các đá trầm tích lục nguyên Neogen (n). Tổng tài nguyên nước dự báo cho tầng chứa nước q là 654.795 m3/ngày, tầng chứa nước qh là 92.802m3/ngày, tầng chứa nước qp là 185.540m3/ngày, tầng chứa nước β(qp) là 229.944 m3/ngày, tầng chứa nước β(n2-qp) là 5.373.122 m3/ngày, tầng chứa nước n là 91.165 m3/ngày.
Tài nguyên nước mặt
Mực nước trung bình tháng 7 năm 2025 trên sông Yayun tại trạm YaYun Hạ là 20873cm, tăng 36cm so với tháng trước, không thay đổi so với tháng cùng kỳ năm trước và tăng 29cm so với tháng 7 trung bình nhiều năm. Giá trị mực nước lớn nhất là 21018cm (ngày 25/7/2025), giá trị mực nước nhỏ nhất là 20780cm (ngày 10/7/2025).
Trong tháng 7 năm 2025, tại trạm YaYun Hạ có lưu lượng nước trung bình tháng khoảng 43,3m3/s, tăng khoảng 13,4m3/s so với tháng trước, tăng khoảng 0,2m3/s so với tháng cùng kỳ năm trước.
Trong tháng 7 năm 2025, tổng lượng nước trên sông YaYun chảy qua mặt cắt ngang tại trạm YaYun Hạ khoảng 116 triệu m3, tăng khoảng 38,4 triệu m3 so với tháng trước.
Kết quả phân tích chất lượng nước sông và kết quả tính toán chất lượng nước sông theo chỉ số WQI cho thấy chất lượng nước sông Ba Ya Yun có thể sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt.
Tài nguyên nước dưới đất
Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Đệ tứ không phân chia (q)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 7 có xu thế dâng so với tháng 6. Giá trị dâng cao nhất là 1,12m tại xã Phú Thiện (C7a) và giá trị hạ thấp nhất là 0,24m tại xã Ia Rsai (LK36aT). Mực nước trung bình tháng nông nhất là -2,8m tại xã Phú Thiện (CB1-IV) và sâu nhất là -13,65m tại xã Ia Rsai (LK36aT). Trong tháng 8 và tháng 9 mực nước có xu thế dâng, mực nước dâng từ 0,07m đến 1,69m.
Tầng chứa nước Holocene (qh)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 7 không có xu thế rõ ràng so với tháng 6. Giá trị mực nước dâng là 0,18m tại xã Tuy Phước Đông (QT10-BĐ) và giá trị mực nước hạ là 0,15m tại phường Quy Nhơn Đông (QT8-BĐ). Mực nước trung bình tháng nông nhất là -2,36m tại phường Quy Nhơn Đông (QT8-BĐ) và sâu nhất là -2,41m tại xã Tuy Phước Đông (QT10-BĐ).
Tầng chứa nước Pleistocene (qp)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 7 có xu thế hạ so với tháng 6. Giá trị hạ thấp nhất là 0,68m tại xã Hòa Hội (QT2-BĐ). Mực nước trung bình tháng nông nhất là -2,21m tại xã Tuy Phước Đông (QT4- BĐ) và sâu nhất là -13,58m tại phường Quy Nhơn Đông (QT3-BĐ). Trong tháng 8 và tháng 9 mực nước có xu thế hạ, mực nước hạ từ 0,12m đến 1,6m.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa β(qp)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 7 có xu thế dâng so với tháng 6. Giá trị dâng cao nhất là 3,29m tại P.An Phú (CB1-I). Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,19m tại xã Biển Hồ (LK159T) và sâu nhất là -24,55m tại phường Hội Phú (LK167T). Trong tháng 8 và tháng 9 mực nước có xu thế dâng, mực nước dâng từ 0,43m đến 4,14m.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 7 có xu thế dâng so với tháng 6. Giá trị dâng cao nhất là 2,53m tại xã Ia Hrú (LK170T). Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,21m tại xã Chư Prông (LK144T) và sâu nhất là -28,65m tại xã Đức Cơ (LK165T). Trong tháng 8 và tháng 9 mực nước có xu thế dâng, mực nước dâng từ 0,1m đến 4,61m.
Tầng chứa nước khe nứt trong các đá trầm tích lục nguyên Neogen (n)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 7 không có xu thế rõ ràng so với tháng 6. Giá trị dâng cao nhất là 1,2m tại xã Phú Thiện (C7b) và giá trị hạ thấp nhất là 0,26m tại xã Uar (LK31T). Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,95m tại công trình LK59T (xã Ialy) và sâu nhất là -18,02m tại công trình LK62T (xã Ialy). Trong tháng 8 và tháng 9 mực nước có xu thế dâng, mực nước dâng từ 0,19m đến 1,14m.