“An ninh nguồn nước” được hiểu là “khả năng người dân có thể được đảm bảo bền vững trong tiếp cận đủ lượng nước với chất lượng có thể chấp nhận được để duy trì sinh kế, đời sống con người và phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo việc bảo vệ chống lại ô nhiễm nguồn nước và các thảm họa liên quan đến nước; để bảo tồn các hệ sinh thái trong môi trường hòa bình và ổn định chính trị”. Khái niệm an ninh nguồn nước nêu trên được Uỷ ban về nước - Liên hợp quốc (UN-Water) đề xuất vào năm 2013 nhằm hướng tới một cách hiểu, nền tảng chung về an ninh nguồn nước trong Liên hợp quốc cũng như các thành viên và đối tác của UN-Water trong bối cảnh tồn tại nhiều định nghĩa, cách giải thích khác nhau về an ninh nguồn nước. Theo UN-Water, một định nghĩa chung về an ninh nguồn nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lồng ghép các vấn đề an ninh nước vào đối thoại phát triển quốc tế, đặc biệt là trong việc xây dựng các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs).
Tại Việt Nam, trước những thách thức ngày càng lớn về tài nguyên nước, ngày 23/6/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 36-KL/TW yêu cầu đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia. Luật Tài nguyên nước năm 2023 (khoản 23, Điều 2) cũng đã chính thức đưa ra định nghĩa về an ninh nguồn nước, nhấn mạnh đến việc bảo đảm cả số lượng và chất lượng nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và môi trường trong mọi tình huống.
Nhận diện những thách thức lớn đe dọa an ninh nguồn nước quốc gia
Việt Nam đang đối mặt với ít nhất 8 nhóm thách thức lớn trong bảo đảm an ninh nguồn nước như:
Một là, nguồn nước của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài và phân bố không đều theo không gian và thời gian: Tổng lượng nước trung bình nhiều năm trên phạm vi toàn quốc khoảng 935,9 tỷ m3/năm (nước mặt khoảng 844,4 tỷ m3/năm, nước dưới đất khoảng 91,5 tỷ m3/năm). Trong đó, lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam khoảng 504,4 tỷ m3 (chiếm 60%); mùa cạn kéo dài từ 7-9 tháng chỉ chiếm khoảng 28% tổng dòng chảy năm.
Hai là, áp lực phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu nước tăng nhanh chóng: bình quân trong vòng 50 năm qua, nhu cầu nước đã tăng gấp 03 lần do sự gia tăng dân số, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị hóa; dự báo đến năm 2030 nhu cầu sử dụng nước cho các ngành khoảng 122,47 tỷ m3/năm, đến năm 2050 khoảng 131,7 tỷ m3/năm.
Ba là, ô nhiễm nguồn nước gia tăng, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa nhanh, các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp gia tăng kéo theo các hoạt động xả nước thải, nhất là nước thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn xả vào nguồn nước, đã và đang tác động và gây sức ép ngày càng lớn, nghiêm trọng đến cả số lượng và chất lượng nguồn nước các sông, suối và các tầng chứa nước.
Bốn là, mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước gia tăng: mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước chủ yếu liên quan đến lợi ích kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực, giữa thượng lưu và hạ lưu các lưu vực sông; giữa nhu cầu dùng nước cho thủy điện với thủy lợi và nhu cầu cho công nghiệp, sinh hoạt và sản xuất ở hạ du các lưu vực sông,...
Năm là, hiệu quả khai thác, sử dụng nước trong các ngành còn thấp: hiệu quả sử dụng nước còn thấp và lãng phí, đặc biệt là sử dụng nước cho nông nghiệp và tại các đô thị. Mặc dù, GDP đầu người tăng nhanh, đạt trên 2.500 USD năm 2018 (tăng 2,5 lần so với năm 2002) nhưng giá trị sử dụng nước còn thấp, chỉ tạo ra 2,37 đôla/m3 nước, chỉ bằng 12% so với mức trung bình toàn cầu (19,42 đôla).
Theo đánh giá của các Tổ chức quốc tế, mức đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia của Việt Nam hiện nay chỉ đạt mức 2/5 (trong khi đó ở Indonesia đạt mức 3/5, Hàn Quốc và Úc đạt 4/5 là mức cao nhất thế giới năm 2020). Nguồn tài nguyên có giá trị nhưng không được đánh giá hoặc định giá về mặt kinh tế vì vẫn được xem là của trời cho, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng nước lãng phí và ý thức bảo vệ tài nguyên nước chưa cao.
Sáu là, rừng đầu nguồn bị suy giảm, diện tích rừng không được cải thiện, chất lượng rừng kém làm giảm nguồn sinh thủy.
Bẩy là, chưa có hệ thống công cụ phục vụ xây dựng kịch bản nguồn nước, điều hòa, phân phối tài nguyên nước thống nhất trên lưu vực sông để điều phối hoạt động khai thác, sử dụng nước của các ngành, các địa phương nhằm tối ưu hóa lợi ích về kinh tế - xã hội, môi trường do nguồn nước mang lại dẫn đến tình trạng sử dụng nước lãng phí, hiệu quả sử dụng không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu về an ninh nước sạch, an ninh lương thực và an ninh năng lượng.
Tám là, đầu tư và tài chính ngành nước vẫn thiếu so với nhu cầu; bố trí nguồn lực còn chưa tương xứng và mất cân đối giữa các ngành. Đặc biệt, đầu tư kinh phí cho các hoạt động điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước, các hoạt động bảo vệ tài nguyên nước, phục hồi nguồn nước, phòng, chống suy thoái, cạn kiệt tài nguyên nước, đầu tư xây dựng công trình hồ chứa, tích trữ nước chưa tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu.
Luật Tài nguyên nước 2023 – Cột mốc mới cho quản lý và bảo vệ nước
Luật Tài nguyên nước năm 2023 được Quốc hội thông qua với 10 Chương và 86 Điều đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Trong đó, các quy định liên quan đến đảm bảo an ninh nguồn nước được thể hiện xuyên suốt trong các Chương, Điều của Luật nhằm hướng tới mục tiêu bảo đảm an ninh nguồn nước tại Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị.
Với cách tiếp cận "quản lý tổng hợp, liên ngành và thống nhất theo lưu vực", Luật Tài nguyên nước năm 2023 không chỉ tạo hành lang pháp lý đầy đủ mà còn thúc đẩy các chuyển đổi mang tính chiến lược:
Bảo đảm nước cho sinh hoạt là ưu tiên hàng đầu: Lần đầu tiên, Luật quy định cụ thể trách nhiệm bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt, xây dựng danh mục công trình cấp nước đặc biệt quan trọng, quy định phương án bảo vệ nghiêm ngặt.
Điều hòa, phân phối nước dựa trên kịch bản nguồn nước: Luật yêu cầu xây dựng kế hoạch khai thác - sử dụng, lập phương án điều hòa và phân phối nước, đặc biệt trong tình huống hạn hán, xâm nhập mặn.
Ứng dụng công nghệ số: Hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số thông qua Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định. Đây là một trong những điểm nổi bật của Luật tài nguyên nước 2023. Nền tảng công nghệ số sẽ được đẩy mạnh ứng dụng trong việc hỗ trợ các Cơ quan quản lý trong quá trình quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, đặc biệt khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông. Đồng thời, giảm thiểu nhân lực, chi phí vận hành, quản lý.
Đặc biệt, Luật đã quy định đối với việc vận hành hồ chứa, liên hồ chứa quy trình vận hành phải được xây dựng, ban hành hướng tới việc vận hành các hồ chứa theo thời gian thực nhằm bảo đảm an toàn cho công trình, hạ du, tối ưu hoá việc sử dụng nguồn nước cho các mục đích sử dụng và lợi ích về kinh tế - xã hội, môi trường do nguồn nước mang lại.
Áp dụng công cụ kinh tế: Luật bổ sung các quy định về tính đúng, tính đủ giá trị tài nguyên nước, chuyển từ miễn phí sang trả phí – phù hợp với nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền", "người sử dụng phải có trách nhiệm" nhằm nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước.
Phục hồi dòng sông và nguồn nước bị suy thoái: Luật lần đầu tiên có chương trình khôi phục các “dòng sông chết”, tạo dòng chảy sinh thái, cải thiện cảnh quan và nâng cao giá trị kinh tế - môi trường, trong đó kèm theo chương trình, đề án, dự án ưu tiên làm sống lại các dòng sông.
Bên cạnh những điểm nổi bật nêu trên, Luật Tài nguyên nước còn sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước như: quy định về việc đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, ngưỡng khai thác nước dưới đất; quy định về phân vùng chức năng nguồn nước; quy định về phòng, chống sạt, lở lòng bờ, bãi sông, hồ; quy định cụ thể về việc lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm phá không được san lấp; quy định về khai thác, sử dụng nước,...:
Giải pháp trọng tâm bảo đảm an ninh nguồn nước
Với vai trò là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ, điều hoà, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương triển khai một số các giải pháp trọng tâm trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước, bao gồm:
Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng và các Bộ liên quan xây dựng giải pháp phòng, chống tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu, suy giảm, ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt khu vực đồng bằng Sông Cửu Long.
Cùng với đó, xây dựng Hệ thống thông tin tài nguyên nước quốc gia phục vụ công tác hỗ trợ ra quyết định điều hòa, phân bổ tài nguyên nước trên các lưu vực sông; theo dõi các chỉ tiêu, đánh giá an ninh nguồn nước quốc gia.
Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ triển khai các giải pháp phục hồi các nguồn nước bị suy thoái. Đặc biệt ưu tiên khôi phục các dòng sông bị ô nhiễm, cạn kiệt; tăng khả năng trữ nước, liên kết vùng, đảm bảo cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất trong bối cảnh biến đổi khí hậu; đầu tư xây dựng hồ chứa, đập dâng, công trình chống xâm nhập mặn, cấp nước sạch và xử lý nước thải đồng bộ từ vùng núi đến ven biển.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong chia sẻ dữ liệu, cảnh báo sớm, giải quyết các vấn đề liên quan đến nguồn nước xuyên biên giới.
An ninh nguồn nước không chỉ là vấn đề tài nguyên mà còn là vấn đề phát triển bền vững, an sinh xã hội, quốc phòng và an ninh quốc gia. Luật Tài nguyên nước 2023 cùng với các định hướng chiến lược, giải pháp đồng bộ chính là nền tảng để Việt Nam bảo vệ hiệu quả “nguồn sống” quý giá của mình trước những thách thức hiện tại và tương lai.