Phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong quản trị tài nguyên nước quốc gia

G+ ( dwrm.mae.gov.vn/phat-huy-vai-tro-lanh-dao-toan-dien-cua-dang-trong-quan-tri-tai-nguyen-nuoc-quoc-gia-15701.htm)

10:00 15/08/2025

Luật tài nguyên nước đầu tiên được ban hành lần đầu vào năm 1998. Trải qua quá trình sửa đổi, bổ sung, đến năm 2023, Luật tài nguyên nước được hoàn thiện và ban hành, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc thể chế hóa chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước. Điểm nhấn lớn của Luật 2023 là định hướng quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số. Trọng tâm là xây dựng Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, các công cụ hỗ trợ ra quyết định, hệ thống giám sát tự động nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực và nâng cao năng lực dự báo, điều hành, đặc biệt trong quản lý vận hành liên hồ chứa, dự báo hạn hán, thiếu nước và xây dựng các kịch bản nguồn nước đảm bảo “đúng, đủ, sạch, sống”.

Định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn coi quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đặc biệt là tài nguyên nước, là nhiệm vụ chiến lược. Công tác này gắn liền với chủ trương chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, quản lý khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bền vững nguồn lực.

Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã chỉ rõ các giải pháp là rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước bảo đảm đồng bộ, khả thi,...

Cùng với đó, tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 là hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành. Đây cũng là định hướng quan trọng của Đảng để có thể tạo đột phá trong công tác quản lý tài nguyên nước thông qua chuyển đổi số hướng tới quản trị tài nguyên nước nhằm đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

 

Luật Tài nguyên nước 2023 – Bước tiến về tư duy và quản trị tài nguyên nước

Thực hiện các chỉ đạo chiến lược nêu trên, trong quá trình xây dựng Luật tài nguyên nước 2023, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) đã chỉ đạo Cục Quản lý tài nguyên nước phối hợp với các đơn vị liên quan cập nhật, thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước và nhận thức được vấn đề cốt lõi trong đường lối chỉ đạo của Đảng đối với công tác quản lý tài nguyên nước trong thời kỳ mới là tiên quyết phải thay đổi tư duy quản lý, trong đó thúc đẩy chuyển đổi số, áp dụng khoa học công nghệ, ứng dụng các công cụ kinh tế trong quản trị tài nguyên nước, kết hợp phân công, phân cấp trách nhiệm rõ giữa trung ương và địa phương, đẩy mạnh xã hội hóa nhằm bảo đảm tài nguyên nước được quản lý như tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện sở hữu và thống nhất quản lý theo đúng tinh thần Hiến pháp và với mục tiêu cao nhất là đảm bảo an ninh nguồn nước của Việt Nam.

Trong đó, Luật tài nguyên nước 2023 đặt an ninh nguồn nước quốc gia là kim chỉ nam, hướng tới nâng cao mức đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh tài nguyên nước hiệu quả trong khu vực Đông Nam Á và tiệm cận với các nước tiên tiến trên Thế giới. Điều hòa, phân phối tài nguyên nước là nội dung cốt lõi trong việc quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn nước. Việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước cho các mục đích khai thác, sử dụng tài nguyên nước căn cứ trên cơ sở quy hoạch về tài nguyên nước, kịch bản nguồn nước, quy trình vận hành liên hồ chứa, hiện trạng, nhu cầu và hạn ngạch khai thác tài nguyên nước.

Đồng thời, hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số thông qua Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định, hệ thống giám sát tài nguyên nước,... giảm yêu cầu về nhân lực, chi phí vận hành và đáp ứng kịp thời, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và nâng cao ý thức của người dân, các tổ chức trong việc khai thác, bảo vệ nguyên nước. Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế; đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực tài nguyên nước, tạo nguồn lực trong bối cảnh nguồn lực Nhà nước còn hạn chế; phục hồi, làm sống lại các “dòng sông chết”.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua, Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước đã chỉ đạo, giám sát chặt chẽ việc tổ chức, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp quản lý trong lĩnh vực tài nguyên nước với vai trò là cơ quan chuyên môn được Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao, trong đó nhiệm vụ quan trọng là tổ chức thực hiện các giải pháp bảo vệ, điều hòa, phân phối, phát triển, tích trữ nước, phục hồi nguồn nước và các hoạt động khác liên quan đến tài nguyên nước nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước. Một số kết quả nổi bật gồm:

Một là, xây dựng các Quy hoạch tài nguyên nước làm căn cứ phục vụ quản lý, điều hòa, phân phối tài nguyên nước và các hoạt động đầu tư các công trình khai thác, sử dụng nước trên các lưu vực sông19.

Hai là, trình Bộ công bố 08/16 KBNN (lần đầu) trên các lưu vực sông đã được phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh. Kỳ công bố KBNN trong các tháng mùa cạn năm 2024 - 2025 trên các lưu vực sông.

Ba là, chủ động nghiên cứu xây dựng được một số hệ thống dữ liệu, công nghệ số phục vụ quản lý, hỗ trợ quyết định chỉ đạo, điều hành, gồm: Giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước; Vận hành quy trình vận hành liên hồ chứa; Triển khai nghiên cứu, xây dựng Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ quyết định điều hòa phân phối tài nguyên nước.

Để pháp luật về tài nguyên nước đi vào cuộc sống, Cục Quản lý tài  đã chủ động tổ chức triển khai và tham mưu, đôn đốc các địa phương nghiên cứu, tổ chức thực hiện các quy định của Luật tài nguyên nước.

 

Những thách thức lớn trong công tác quản lý tài nguyên nước

Mặc dù đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ nêu trên, nhưng công tác quản lý tài nguyên nước cũng còn không ít khó khăn, thách thức do một số nguyên nhân chủ yếu như sau: 

Thứ nhất là, nguồn nước của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài. Phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều là các sông xuyên biên giới mà Việt Nam là quốc gia ở hạ nguồn. Nếu xét nguồn nước nội sinh thì chỉ đạt 4.421 m3/người/năm, thấp hơn trung bình của Đông Nam Á (4.900 m3/người/năm).

Thứ hai là, bình quân trong vòng 50 năm qua, nhu cầu sử dụng nước đã tăng gấp 3 lần do sự gia tăng dân số, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị hóa; dự báo đến năm 2030 nhu cầu sử dụng nước cho các ngành khoảng 122,47 tỷ m3/năm.

Thứ ba là, ô nhiễm nguồn nước gia tăng, nước thải chưa được xử lý đạt tiêu chuan, quy chu å anå xả vào nguồn nước; mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước gia tăng; suy giảm, cạn kiệt dòng chảy ở nhiều dòng sông; thất thoát nước trong khai thác; hiệu quả khai thác sử dụng nước trong các ngành còn thấp (chỉ tạo ra 2,37 đôla/m3 nước, chỉ bằng 12% so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 đôla/m3),... 

Thứ tư là, suy giảm rừng đầu nguồn, chất lượng rừng suy thoái, giảm khả năng giữ nước của đất, tăng xói mòn đất, sạt lở, xâm nhập mặn, lũ ống, lũ quét, ảnh hưởng đến tính mạng, tài sản, kết cấu hạ tầng ở hạ du các lưu vực sông. 

Chỉ số ANNN quốc gia của Việt Nam được đánh giá ở mức 2/5, được coi ở mức thấp (trong khi đó ở Indonesia đạt mức 3/5, Hàn Quốc và Úc đạt 4/5 là mức cao nhất thế giới năm 2020).

Phương châm hành động và giải pháp trọng tâm

Đại hội Đảng bộ Cục Quản lý tài nguyên nước lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025 – 2030 đã xác định phương châm “Kết quả hôm nay là khởi đầu của ngày mai”. Trên tinh thần tiếp nối thành tích đã đạt được, khắc phục hạn chế, phát huy ưu điểm với tinh thần quyết tâm chính trị cao nhất, đoàn kết, đồng lòng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm là những giá trị cốt lõi để đảm bảo an ninh nguồn nước. Đảng ủy Cục đề ra 07 nhóm giải pháp trọng tâm nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững trong tình hình mới, cụ thể:

Một là, tiếp tục bám sát và thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước để tham mưu xây dựng, hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật tài nguyên nước đảm bảo đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế.

Hai là, hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số, giảm thiểu tối đa chi phí nhân lực, nguồn lực cho quản lý. Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế.

Ba là, đẩy mạnh xã hội hoá trong bảo vệ, điều hoà, phân phối, phục hồi, phát triển tài nguyên nước; xây dựng, vận hành, tiếp nhận chuyển giao kết quả của Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, Hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định trong bối cảnh nguồn lực Nhà nước còn hạn chế.

 

Bốn là, hoàn thiện hệ thống quy hoạch tài nguyên nước, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, nâng cao tính chính xác của các Kịch bản nguồn nước trên các lưu vực sông lớn, quan trọng phục vụ đắc lực công tác xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước của các Bộ, ngành, địa phương.

Năm là, hình thành nguyên tắc, phương pháp, cơ chế định giá, lượng giá, hạch toán tài nguyên nước phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hệ thống tài khoản quốc gia về tài nguyên nước.

Sáu là, áp dụng tiêu chuẩn, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến; nâng chỉ số an ninh nguồn nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh nguồn nước hiệu quả trên thế giới để hướng tới chủ động về nguồn nước trong mọi tình huống.

Bẩy là, tăng cường phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để triển khai giải pháp bảo đảm an ninh nguồn nước và phân phối hợp lý trên các lưu vực sông.

DWRM