Phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số

G+ ( dwrm.mae.gov.vn/phat-huy-vai-tro-lanh-dao-cua-to-chuc-dang-trong-quan-tri-tai-nguyen-nuoc-tren-nen-tang-cong-nghe-so-15480.htm)

15:00 23/06/2025

Trước yêu cầu cấp thiết về hiện đại hóa công tác quản lý tài nguyên nước, thời gian qua, Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong việc thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số vào thực tiễn công tác quản lý tài nguyên nước, góp phần cụ thể hóa các chủ trương, đường lối lớn của Đảng về phát triển bền vững và chuyển đổi số quốc gia. .

Vận hành hồ chứa thông minh: Chủ động thích ứng với thiên tai, hạn hán

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Cục Quản lý tài nguyên nước đã xây dựng và vận hành Hệ thống thông tin dữ liệu về hồ chứa từ năm 2015 (https://quanly.dwrm.gov.vn/hochua).

Đến nay, hệ thống đã tích hợp dữ liệu vận hành của hơn 134 hồ chứa thuộc 11 lưu vực sông lớn trên cả nước, bao gồm: sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Kôn - Hà Thanh, sông Ba, sông Sê San, sông Srepok và sông Đồng Nai.

Các thông tin, số liệu vận hành mà các đơn vị quản lý vận hành các hồ chứa cập nhật lên hệ thống là cơ sở quan trọng trong việc phân tích, đánh giá việc tuân thủ các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông và là cơ sở để Cục kịp thời đôn đốc, hướng dẫn các chủ hồ thực hiện nghiêm túc việc vận hành đảm bảo cắt, giảm lũ cho hạ du và phối hợp vận hành, điều tiết hồ chứa đảm bảo cấp nước cho hạ du trong trong mùa cạn, các thời kỳ xảy ra hạn hán thiếu nước trên các lưu vực sông và theo quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông.

 

Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thường xuyên cung cấp các bản tin dự báo, cảnh báo kịp thời đến các địa phương, các chủ hồ; đôn đốc việc nghiêm túc thực hiện các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa. Cử đoàn công tác đi khảo sát thực tế tại các vùng bị ngập, lụt tại một số tỉnh, thành phố và các hồ chứa; giải đáp, hướng dẫn, tháo gỡ các vướng mắc trong việc điều hành các hồ chứa theo Quy trình. Đối với mùa cạn, cử các đoàn công tác làm việc với các địa phương để thống nhất phương án chỉ đạo, điều tiết nước các hồ chứa, đặc biệt là trong những thời gian xảy ra hạn hán thiếu nước để đảm bảo việc vận hành các hồ chứa cung cấp đủ nước cho hạ du các lưu vực sông.

Các thông tin hiển thị biểu đồ mùa cạn

Hệ thống thông tin dữ liệu vận hành hồ chứa đã hỗ trợ Cục Quản lý tài nguyên nước triển khai hiệu quả các công việc như: Cung cấp các bản tin hiện trạng vận hành hồ chứa trong mùa lũ và mùa cạn hàng năm; Kịp thời cung cấp thông tin vận hành hồ chứa để hướng dẫn, đôn đốc chủ hồ theo quy trình vận hành liên hồ chứa; tổng hợp số liệu, phục vụ công tác quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, theo dõi mực nước hồ theo giờ, giúp kịp thời phát hiện nguy cơ thiếu nước hoặc lũ lụt để xây dựng phương án vận hành điều tiết nước linh hoạt cho cấp nước sinh hoạt, sản xuất, thủy điện,...

 

Bản đồ hạn hán thời gian thực: Công cụ chiến lược để hoạch định nguồn nước

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan ngày càng xảy ra với tần suất lớn hơn như mưa lũ bất thường, hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn.

Các lưu vực sông, nhất là vùng hạ du như Hồng - Thái Bình, Đồng Nai - Sài Gòn là những khu vực trọng điểm về kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh lương thực và an ninh nguồn nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với nhu cầu khai thác và sử dụng nước gia tăng nhanh chóng, nguồn nước trên các lưu vực sông đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng.

 

Trước thực trạng đó, việc chủ động xây dựng kịch bản nguồn nước là yêu cầu cấp thiết, làm căn cứ để các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Dưới sự định hướng chiến lược của Đảng ủy, Cục Quản lý tài nguyên nước đã đẩy mạnh nghiên cứu và xây dựng bản đồ hạn hán, kịch bản nguồn nước theo thời gian thực dựa trên ứng dụng đồng bộ các công nghệ hiện đại như: Thu thập và xử lý dữ liệu lớn (Big Data); Ứng dụng mô hình số; Phân vùng hạn và xây dựng bản đồ số; Xây dựng các kịch bản nguồn nước.

 

Các sản phẩm bản đồ và bản tin được cập nhật định kỳ theo tháng, gồm: (1) Bản tin/bản đồ dự báo mưa hạn mùa (cập nhật định kỳ hàng tháng, cung cấp thông tin về xu thế lượng mưa. Từ đó dưa ra cảnh báo thiếu lượng mưa); (2) Bản tin/bản đồ dự báo dòng chảy, hồ chứa (dựa bảo xu thế mưa đưa ra xu thế dòng chảy các sông chính, lượng nước tích trữ tại các hồ lớn nhằm cảnh báo sớm cho các địa phương, ngành sản xuất chủ động ứng phó với tình trạng thiếu nước); (3) Bản đồ hạn hán theo vùng, theo thời gian (hiển thị các khu vực bị thiếu nước).

Giám sát tài nguyên nước trên nền tảng IoT

Từ năm 2018, Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Cục phối hợp với các đơn vị chuyên môn xây dựng Hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước, tích hợp công nghệ IoT và dữ liệu mở (https://iot.monre.gov.vn/tnn/).

Với các mục tiêu được đặt ra bao gồm: Theo dõi, giám sát trực tuyến các công trình khai thác, sử dụng nước mặt; công trình khai thác, sử dụng nước dưới đất do Bộ TN&MT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cấp phép; Thiết kế dựa trên các chuẩn mở để đảm bảo vấn đề kết nối, liên thông, tích hợp và chia sẻ thông tin, dữ liệu với các hệ thống của 63 tỉnh/ thành phố trên cả nước; Kết nối, liên thông được với hệ thống hiện có về quan trắc lưu lượng, mực nước, chất lượng nước của các hồ chứa thủy lợi, thủy điện thuộc quy trình vận hành liên hồ chứa đã ban hành; Cập nhật tự động hoặc thủ công các thông tin (lưu lượng, mực nước, chất lượng nước và hình ảnh) vào hệ thống phục vụ giám sát, cảnh báo.

 

Tính đến tháng 6/2025, hệ thống đã cập nhật được khoảng 13.444 giấy phép tài nguyên nước các loại lên hệ thống, trong đó có 2.276 giấy phép cấp Bộ và 11.168 giấy phép cấp Tỉnh. Bên cạnh đó, đã có 05 Sở Nông nghiệp và Môi trường thử nghiệm, kết nối về hệ thống giám sát tài nguyên nước đối với các công trình do địa phương cấp phép (TP. HCM; Nghệ An, Quảng Ninh, Ninh Thuận và Thái Nguyên).

Cùng với đó, tính đến tháng 6/2025, Hệ thống giám sát tài nguyên nước đã có 832 công trình khai thác tài nguyên nước thuộc đối tượng cấp phép của Bộ NN&MT đăng ký, kết nối truyền dữ liệu về hệ thống.

Hệ thống giám sát tài nguyên nước được xây dựng và đi vào vận hành đã mang lại những kết quả ban đầu, hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý tại Trung ương và các địa phương. Từ dữ liệu của các công trình kết nối, truyền về Hệ thống giám sát tài nguyên nước Trung ương đã góp phần đắc lực cho công tác quản lý điều hành, ra quyết định phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Cục Quản lý tài nguyên nước.

 

Giải pháp trọng tâm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng về đẩy mạnh chuyển đổi số lĩnh vực tài nguyên nước

Mặc dù đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực tài nguyên nước vẫn còn một số tồn tại do đặc thù quản lý liên ngành, liên vùng; thiếu cơ sở dữ liệu đồng bộ; hạn chế về nguồn lực và hạ tầng công nghệ. Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức đến vai trò của cơ sở dữ liệu và chuyển đổi số trong công tác quản lý.

Trước tình hình đó, Đảng ủy Cục Quản lý tài nguyên nước đã đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng chiến lược hướng tới quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, cụ thể:

Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong chuyển đổi số quốc gia, nhất là xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, công cụ hỗ trợ ra quyết định một cách đồng bộ để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW.

Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu.

Ba là, tăng cường đào tạo và thu hút nhân lực chất lượng cao, nhất là cán bộ trẻ có chuyên môn sâu về công nghệ số trong các lĩnh vực như AI, Big Data, Blockchain, IoT…

Bốn là, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, phát triển hạ tầng số, nền tảng dữ liệu mở, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực tài nguyên nước.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc triển khai chuyển đổi số.

Sáu là, đánh giá, phổ biến và nhân rộng các mô hình tốt, hiệu quả trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong ngành tài nguyên nước.

Quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số không chỉ là giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và các thách thức về tài nguyên nước, mà còn là hiện thực hóa tầm nhìn, chiến lược của Đảng trong công cuộc phát triển bền vững. Thành tựu bước đầu của Cục Quản lý tài nguyên nước là kết quả trực tiếp từ sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát của tổ chức Đảng với vai trò hạt nhân chính trị, thống nhất ý chí, hành động trong toàn Đảng bộ Cục Quản lý tài nguyên nước.

DWRM